Lúc đầu, bóng billard được làm bằng ngà voi. Tuy vậy, ngà voi tương đối hiếm và đắt tiền nên nhà phát minh người Mỹ có tên là John Wesley Hyatt đã cố gắng tìm đủ mọi cách để tạo ra chất liệu tương tự nhưng rẻ tiền hơn. Sau một loạt nỗ lực bất thành, cuối cùng ông đã thành công khi trộn lẫn nitrocellulose, long não (camphor) và cồn rồi nung nóng hợp chất này lên và để nguội sản phẩm. Hợp chất mà Hyatt tạo ra được gọi là “celluloid” tương đối cứng và dễ dàng sản xuất với giá thành chấp nhận được với nhiều màu sắc khác nhau. Vào thời đó, ngoài việc sản xuất bóng billard thì celluloid đã được sử dụng để sản xuất rất nhiều thứ như lược chải đầu, đồ chơi …
Tuy vậy, đây chưa thực sự được gọi là hợp chất đánh dấu sự bắt đầu xuất hiện của nhựa plastic bởi nó vẫn được chế tạo từ các hợp chất tự nhiên. Phải đợi tới 40 năm sau, một nhà hóa học khác là Leo Baekeland mới bắt đầu nung nóng phenol và formaldehyde để tạo ra nhựa plastic đầu tiên mà Baekeland đã gọi là “Bakelite”. Hợp chất này đã được sử dụng để làm rất nhiều thứ như tay cầm điện thoại, phụ kiện ô tô … Ngày nay thậm chí loại nhựa này vẫn còn được sử dụng để làm cúc áo, tay cầm ấm nước, tay cầm dao, kéo … Bakelite mới thực sự đánh dấu sự phát triển của nhựa tổng hợp plastic. Năm 1953, Chevrolet Corvette là chiếc xe ô tô đầu tiên có thân (body) được làm bằng nhựa tổng hợp nhưng cũng phải tiếp theo đó 20-30 năm thì các loại nhựa tổng hợp khác nhau mới thật sự đạt tiêu chuẩn công nghiệp và được áp dụng đại trà trong cuộc sống như ngày nay.